Một số thể thường gặp của ung thư vú chịu tác động của các loại hormon estrogen và progesteron. Tế bào ung thư vú có những thụ thể (receptor) gắn vào estrogen và progesteron, qua đó kích thích chúng phát triển và nhân lên. Điều trị để ngừng việc hormon gắn vào thụ thể trên tế bào ung thư gọi là liệu pháp hormon.
Liệu pháp hormon có thể tiếp cận các tế bào ung thư ở hầu như mọi nơi trong cơ thể, không chỉ ở vú. Nó được khuyến cáo cho những phụ nữ có khối u dương tính với thụ thể hormon. Ngược lại, liệu pháp này không có hiệu quả ở những khối u mà tế bào không có thụ thể hormon.
♥ Đọc thêm: Ung thư vú bộ ba âm tính
Mục lục
Liệu pháp hormon được sử dụng khi nào?
Liệu pháp hormon thường được sử dụng sau khi phẫu thuật (như một điều trị bổ trợ), để giảm thiểu nguy cơ ung thư tái phát. Đôi khi, chúng được tiến hành trước khi phẫu thuật (gọi là điều trị tân bổ trợ). Chúng thường kéo dài trong ít nhất 5 đến 10 năm.
Liệu pháp hormon hoạt động như thế nào?
Các thụ thể (receptor) là những protein đặc biệt được tìm thấy bên trong và trên bề mặt màng tế bào, chúng có thể coi là “tai mắt” của tế bào, nhận thông tin từ những chất ở trong máu và sau đó “ra lệnh” cho tế bào làm một nhiệm vụ tương ứng.

Các thụ thể hormon bên trong và trên bề mặt tế bào vú khỏe mạnh nhận thông điệp từ các phân tử hormon Estrogen và Progesteron. Hormon gắn vào thụ thể và kích hoạt một loạt các phản ứng sinh hóa, nhằm làm tế bào hoạt động đúng cách theo “sự chỉ đạo” của cơ thể.
Khoảng 2/3 ung thư vú dương tính với thụ thể của hormon. Những tế bào ung thư loại này có các thụ thể của hormon estrogen (ER) và/hoặc thụ thể hormon progesteron (PR) giúp tế bào ung thư phát triển và lan rộng.
Liệu pháp hormon điều trị ung thư vú có nhiều loại. Hầu hết trong số đó hoạt động theo cơ chế làm giảm nồng độ estrogen trong máu hoặc ngăn chặn estrogen tác động lên tế bào ung thư vú thông qua thụ thể của chúng.
Thuốc ức chế thụ thể estrogen

Tamoxifen
Đây là loại thuốc giúp ức chế thụ thể estrogen trên tế bào ung thư vú. Nó ngăn chặn estrogen kết nối với tế bào ung thư và qua đó kích thích chúng phát triển hay phân chia. Trong khi tamoxifen hoạt động giống như một chất đối kháng estrogen ở mô vú thì ở các loại mô khác, nó lại có tác dụng sinh học giống như estrogen (ví dụ ở tử cung hoặc mô xương). Bởi vậy, tamoxifen được gọi là chất điều hòa thụ thể estrogen có chọn lọc (selective estrogen receptor modulator – SERM). Chúng có thể được dùng cho những phụ nữ bị ung thư vú đã hoặc chưa trải qua thời kì mãn kinh.
Tamoxifen có thể được sử dụng theo nhiều cách:
- Ở những phụ nữ có nguy cơ cao mắc ung thư vú, tamoxifen được sử dụng như một thuốc dự phòng, làm giảm nguy cơ phát triển bệnh.
- Ở những phụ nữ mắc ung thư vú thể ống tuyến tại chỗ (DCIS) được phẫu thuật bảo tồn tuyến vú, và xét nghiệm dương tính với thụ thể hormon, sử dụng tamoxifen liên tục trong 5 năm làm giảm đáng kể nguy cơ ung thư vú quay trở lại. Nó cũng làm giảm khả năng mắc một loại ung thư vú xâm lấn ở cả hai vú.
- Với những phụ nữ mắc ung thư vú xâm lấn, dương tính với thụ thể hormon và đã được điều trị bằng phẫu thuật, tamoxifen có thể làm giảm nguy cơ ung thư tái phát trở lại và kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân. Nó cũng được chứng minh là làm giảm nguy cơ mắc một loại ung thư khác không phải là ung thư vú. Thuốc được sử dụng chủ yếu cho phụ nữ mắc ung thư vú ở giai đoạn sớm và chưa trải qua thời kì mãn kinh (nếu bạn đã mãn kinh, thuốc ức chế aromatase thường được sử dụng hơn).
- Với những bệnh nhân ung thư vú đã có di căn xa, tamoxifen có thể giúp làm hạn chế sự phát triển của khối u, thậm chí trong một số trường hợp làm thu nhỏ kích thước khối u.
Toremifen
Toremifen (Fareston) là một thuốc điều hòa thụ thể estrogen có chọn lọc khác, nhưng ít được sử dụng hơn, và thường được chỉ định cho những bệnh nhân ung thư vú di căn đang bước vào thời kì tiền mãn kinh. Những thuốc này đều ở dạng viên uống.
Tác dụng phụ của các thuốc điều hòa thụ thể estrogen có chọn lọc (SERM)
Những tác dụng phụ thường gặp của tamoxifen và toremifen là:
- Cảm giác nóng bừng
- Âm đạo khô hoặc tiết dịch bất thường
Một số phụ nữ có ung thư di căn vào xương đôi khi có cơn “bùng phát” với chứng đau xương. Triệu chứng thường suy giảm nhanh chóng nhưng có một số ít ca bệnh có thể tiến triển thành tăng canxi máu rất khó kiểm soát. Nếu điều này xảy ra, điều trị nội tiết có thể phải ngừng lại trong một thời gian.
Một số tác dụng phụ khác, nhưng rất hiếm:
- Nếu người phụ nữ đã trải qua thời kì mãn kinh, SERM có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư tử cung. Hãy báo với bác sĩ của bạn nếu thấy có tình trạng ra máu âm đạo bất thường (một triệu chứng thường gặp của ung thư nội mạc tử cung). Hầu hết các tình huống ra máu âm đạo thường không liên quan đến ung thư, nhưng tốt hơn hết là nó cần phải được theo dõi cẩn thận.
- Hình thành cục máu đông cũng là một tác dụng phụ hiếm gặp, nhưng nguy hiểm. Chúng thường phát sinh ở chân (gọi là bệnh huyết khối tĩnh mạch sâu), và đôi khi một mảnh của huyết khối tách ra, trôi về tim và gây tắc nghẽn động mạch phổi (nhồi máu phổi). Hãy liên hệ với nhân viên y tế nếu bạn thấy các triệu chứng đau, sưng, nề đỏ vùng bắp chân; khó thở, hay đau ngực, bởi đó là triệu chứng của hai bệnh cảnh trên.

- Tác dụng phụ hiếm gặp khác của Tamoxifen là đột quỵ ở phụ nữ mãn kinh. Hãy báo cho bác sĩ nếu bạn có những triệu chứng như đau đầu, lú lẫn, khó nói hoặc khó di chuyển.
Tamoxifen gây tác động lên xương ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào giai đoạn của quá trình mãn kinh. Ở thời kì tiền mãn kinh, tamoxifen thường gây mỏng xương, nhưng sau khi mãn kinh thì nó lại có tác dụng củng cố xương ở một mức độ nào đó. Nên nhớ đối với các thuốc nội tiết điều trị ung thư vú thì lợi ích của chúng luôn vượt trội so với nguy cơ tiềm ẩn.
Fulvestrant (Faslodex)
Fulvestrant là thuốc ức chế và phá hủy thụ thể estrogen. Loại thuốc này không giống với thuốc điều hòa chọn lọc thụ thể estrogen (SERM) mà có tác dụng làm suy giảm thụ thể estrogen có chọn lọc (selective estrogen receptor degrader – SERD). Fulvestrant hiện tại đã được cấp phép để sử dụng cho phụ nữ sau mãn kinh. Tuy nhiên, đôi khi các bác sĩ cũng sử dụng nó ở phụ nữ tiền mãn kinh, thường là kết hợp với chất chủ vận LHRH để ức chế buồng trứng.
Fulvestrant được dùng trong các trường hợp:
- Sử dụng đơn độc để điều trị ung thư vú giai đoạn cuối, khi chưa từng các liệu pháp hormon khác.
- Sử dụng đơn độc để điều trị ung thư vú giai đoạn cuối sau khi các thuốc nội tiết khác đã hết tác dụng.
- Kết hợp với các thuốc đích để điều trị ung thư vú di căn.
Thuốc được sử dụng dưới dạng tiêm mông. Trong tháng đầu tiên, người bệnh được tiêm mỗi 2 tuần một mũi, sau đó giảm xuống mỗi tháng một mũi.
Tác dụng phụ của fulvestrant
Các tác dụng phụ ngắn hạn thường gặp của thuốc là:
- Cảm giác nóng bừng và/hoặc đổ mồ hôi về đêm
- Đau đầu
- Buồn nôn
- Đau xương
- Đau tại chỗ tiêm
Điều trị giảm nồng độ estrogen
Bởi vì estrogen sẽ kích thích ung thư vú dương tính với thụ thể nội tiết phát triển, nên việc làm giảm nồng độ estrogen trong máu có thể giúp làm chậm quá trình này, hoặc giúp phòng ngừa ung thư tái phát.
Các chất ức chế Aromatase (AI)
Các chất ức chế aromatase (Aromatase inhibitors – Viết tắt là AI) là những thuốc ngăn chặn việc sản xuất estrogen. Trước khi mãn kinh, phần lớn estrogen được tạo thành từ buồng trứng. Ở những phụ nữ mà buồng trứng không còn hoạt động (do đã mãn kinh hoặc do các phương pháp điều trị), một lượng nhỏ estrogen vẫn được tạo ra từ các mô mỡ bởi một loại enzym gọi là aromatase. Các thuốc AI tác động bằng cách ức chế aromatase tổng hợp estrogen.
Các thuốc AI rất hữu dụng ở những bệnh nhân đã qua thời kì mãn kinh, tuy nhiên người ta cũng thường dùng chúng ở phụ nữ trước khi mãn kinh kết hợp với các liệu pháp ức chế buồng trứng khác.
Các loại thuốc AI sau đây có vẻ mang lại hiệu quả ngang nhau trong điều trị ung thư vú:
- Letrozole (Ferama)
- Anastrozole (Arimidex)
- Exemestane (Aromasin)
Các thuốc này đều ở dạng viên, uống hàng ngày.

Liệu pháp hormon dùng AI trong điều trị bổ trợ
Sau khi phẫu thuật, liệu pháp hormon có thể được sử dụng để giảm thiểu nguy cơ ung thư quay trở lại. Sử dụng một loại thuốc ức chế aramatase (có thể kết hợp với tamoxifen hoặc không) đã được chứng minh là có hiệu quả tốt hơn so với việc chỉ dùng tamoxifen trong 5 năm.
Các liệu trình điều trị thường dùng là:
- Liệu trình 5-10 năm với tamoxifen trong 2-3 năm đầu, sau đó là một loại AI.
- Liệu trình 5 năm, với một loại AI trong 2-3 năm đầu, sau đó là tamoxifen.
- Tamoxifen trong 5 năm đầu, sau đó là một loại AI trong 5 năm tiếp theo.
- Chỉ dùng một loại AI trong 5-10 năm.
- Ở những phụ nữ không thể dùng AI, tamoxifen dùng trong 5-10 năm cũng là một lựa chọn. Thời gian 10 năm đã được chứng minh là có hiệu quả hơn 5 năm, tuy nhiên bạn nên thảo luận với bác sĩ của mình để có một liệu trình phù hợp.
Với hầu hết phụ nữ sau khi mãn kinh mắc ung thư dương tính với thụ thể hormon, các bác sĩ thường khuyến cáo nên sử dụng một loại thuốc ức chế armomatase ở một vài thời điểm trong quá trình điều trị bổ trợ. Hiện tại, liệu trình điều trị tiêu chuẩn là dùng AI trong khoảng 5 năm, hoặc luân phiên sử dụng với tamoxifen trong ít nhất 5 năm, hoặc dùng theo trình tự với tamoxifen trong ít nhất 3 năm. Với những phụ nữ có nguy cơ cao ung thư vú tái phát, AI được khuyến cáo nên sử dụng trong vòng 10 năm.
Nếu bạn mắc ung thư vú ở giai đoạn sớm, và chưa đến tuổi mãn kinh khi phát hiện bệnh, bác sĩ có thể khuyến cáo bạn nên sử dụng tamoxifen trước, sau đó sử dụng AI khi bạn đến tuổi mãn kinh. Một lựa chọn khác là sử dụng một loại thuốc gọi là LHRH analog, dùng để ức chế hoạt động của buồng trứng, kết hợp cùng một loại AI.
Thuốc ức chế aromatase nói chung không nên sử dụng đơn độc để điều trị ung thư vú ở phụ nữ chưa mãn kinh bởi nó không an toàn và có thể làm tăng nồng độ hormon.
Nếu như ung thư tái phát hoặc lan rộng: AI cũng có thể được sử dụng để điều trị các ung thư vú dương tính với thụ thể nội tiết giai đoạn cuối, đặc biệt là với phụ nữ sau mãn kinh. Chúng sẽ được duy trì cho đến khi nào bác sĩ thấy nó còn có lợi ích cho bệnh nhân.
Các tác dụng phụ của thuốc ức chế aromatase
AI có ít tác dụng phụ nghiêm trọng hơn so với tamoxifen. Chúng không gây nên ung thư tử cung và cũng rất hiếm khi là tác nhân tạo thành cục máu đông. Tuy nhiên chúng có thể là nguyên nhân gây ra tình trạng đau cơ, cứng và đau khớp. Đau khớp thường xảy ra ở nhiều khớp cùng một thời điểm. Đổi sang một loại AI khác có thể giúp cải thiện triệu chứng. Tuy nhiên có một số phụ nữ phải dừng điều trị vì lí do này. Khi đó, bác sĩ thường khuyến cáo người bệnh sử dụng tamoxifen thay thế.
Vì AI làm suy giảm mạnh mẽ lượng estrogen ở phụ nữ sau khi mãn kinh, chúng có thể làm mất xương, dẫn tới loãng xương và thậm chí là gãy xương bệnh lý. Nếu sử dụng AI, bạn cần phải được đo mật độ xương định kì, và sử dụng các loại thuốc để củng cố xương của bạn như biphosphonate, denosumab …

Ức chế buồng trứng

Buồng trứng là cơ quan chính sản xuất estrogen ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Với những phụ nữ chưa đến tuổi mãn kinh, cắt bỏ hoặc làm mất chức năng của buồng trứng là giải pháp đưa họ về trạng thái giống như thời kì sau mãn kinh. Điều này cho phép một số liệu pháp hormon, chẳng hạn như thuốc ức chế aromatase được sử dụng.
Có nhiều cách để ức chế buồng trứng trong điều trị ung thư vú.
- Phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng (Oophorectomy).
- Sử dụng các thuốc tương tự hormon LHRH (Luteinizing hormone-releasing hormone analogs): giải pháp này thường được sử dụng hơn so với phẫu thuật. Chúng ngăn chặn các tín hiệu mà cơ thể gửi tới buồng trứng để tổng hợp estrogen, và gây ra tình trạng mãn kinh tạm thời. Các thuốc thường được sử dụng như Goserelin (Zoladex), Leuprolide (Lupron). Chúng có thể được sử dụng đơn độc hoặc kết hợp với các thuốc nội tiết khác (tamoxifen, ức chế aromatase, fulvestrant).
- Hóa chất trị liệu: một số hóa chất điều trị ung thư có thể tấn công vào buồng trứng và là chúng mất chức năng tổng hợp estrogen. Chức năng của buồng trứng có thể được phục hồi sau vài tháng, hoặc vài năm ở một số phụ nữ, nhưng ở đa số trường hợp, tác động của hóa chất là vĩnh viễn và người phụ nữ sẽ đi vào giai đoạn mãn kinh.
Tất cả các kĩ thuật nêu trên đều dẫn đến những triệu chứng của thời kì mãn kinh như bốc hỏa, đổ mồ hôi trộm, khô rát âm đạo và thay đổi tâm trạng.

Các liệu pháp hormon ít phổ biến
Một số liệu pháp hormon thường được dùng trong quá khứ, nhưng hiện nay rất hiếm khí được sử dụng, bao gồm:
- Megestrol acetate (Megace): một thuốc tương tự progesteron.
- Androgen: một hormon sinh dục nam.
- Sử dụng liều cao estrogen.
Các phương pháp này có thể là lựa chọn khi những liệu pháp hormon khác không phát huy hiệu quả, tuy nhiên chúng cũng thường xuyên gây ra các tác dụng không mong muốn.
♥ Đọc thêm: Ung thư vú, những điều cần biết
Nguồn: American Cancer Society