Mục lục
Ung thư vú bộ ba âm tính là gì?
Ung thư vú bộ ba âm tính (Triple-negative breast cancer – viết tắt là TNBC) chiếm khoảng 10-15% trong số các trường hợp mắc ung thư vú. Thể ung thư này thường gặp ở phụ nữ trẻ, có độ tuổi dưới 40, những phụ nữ gốc Phi, hoặc có mang trong mình đột biến gen BRCA1.
Ung thư vú bộ ba âm tính khác với các loại ung thư vú xâm lấn khác ở chỗ chúng phát triển và lan rộng nhanh hơn, lựa chọn điều trị hạn chế và cũng có tiên lượng xấu hơn.
Thuật ngữ “bộ ba âm tính” nói đến tình trạng các tế bào ung thư loại này không có những thụ thể Estrogen hay Progesteron và cũng không có quá nhiều protein HER2.
Thụ thể là gì?
Các thụ thể (receptor) là những protein đặc biệt được tìm thấy bên trong và trên bề mặt màng tế bào, chúng có thể coi là “tai mắt” của tế bào, nhận thông tin từ những chất ở trong máu và sau đó “ra lệnh” cho tế bào làm một nhiệm vụ tương ứng.
Các thụ thể hormon bên trong và trên bề mặt tế bào vú khỏe mạnh nhận thông điệp từ các phân tử hormon Estrogen và Progesteron. Hormon gắn vào thụ thể và kích hoạt một loạt các phản ứng sinh hóa, nhằm làm tế bào hoạt động đúng cách theo “sự chỉ đạo” của cơ thể. Khoảng 2/3 các tế bào ung thư vú cũng có thụ thể của Estrogen và Progesteron, nhưng với ung thư vú bộ ba âm tính thì không.
Protein HER2 là gì?
Khoảng 20% các ca ung thư vú, tế bào có chứa quá nhiều protein HER2. Ở tế bào khỏe mạnh, HER2 làm nhiệm vụ kiểm soát sự phát triển và nhân lên của tế bào biểu mô tuyến vú. Khi có quá nhiều HER2, tế bào phát triển và phân chia quá nhanh, vượt khỏi tầm kiểm soát của cơ thể.
Cả liệu pháp hormon và liệu pháp thuốc đích HER2 đều sử dụng thụ thể Estrogen, Progesteron và protein HER2 như tín hiệu nhận diện tế bào ung thư để tấn công chúng. Nhưng với ung thư vú bộ ba âm tính, các tín hiệu này đều không có, và làm cho những liệu pháp điều trị nói trên trở nên vô hiệu.
Triệu chứng và phương pháp chẩn đoán
Ung thư vú bộ ba âm tính có các triệu chứng và dấu hiệu giống như các thể ung thư vú khác.
♥ Đọc thêm: Ung thư vú, những điều cần biết
Chẩn đoán ung thư vú ngay nay dựa trên các phương tiện thăm khám hình ảnh (như siêu âm, chụp vú, cộng hưởng từ vú) và sinh thiết vú. Sau khi sinh thiết vú, các tế bào ung thư sẽ được gửi đi để làm xét nghiệm hóa mô miễn dịch. Nếu kết quả trả về tế bào ung thư không có thụ thể của hormon Estrogen, Progesteron, và cũng không có quá nhiều protein HER2, thì chẩn đoán ung thư vú bộ ba âm tính được xác nhận.
Khả năng sống của người mắc ung thư vú bộ ba âm tính
Ung thư vú bộ ba âm tính được coi là một dạng ung thư có độ ác tính cao vì nó phát triển nhanh chóng, thường đã lan rộng ở thời điểm phát hiện, và nguy cơ tái phát sau khi điều trị cũng cao hơn so với các thể ung thư vú khác.
Tỷ lệ sống sót của một loại ung thư cho bạn biết có bao nhiêu phần trăm những người mắc cùng loại ung thư đó ở một giai đoạn nhất định vẫn còn sống sau một khoảng thời gian nhất định (thường là 5 năm) sau khi họ được chẩn đoán. Tỷ lệ này không phải là hình mẫu chung cho tất cả mọi người, nhưng nó giúp bạn hình dung ra khả năng thành công của việc điều trị.
Hãy nhớ rằng tỷ lệ sống sót là một ước tính và nó dựa trên những nghiên cứu trên một số lượng lớn bệnh nhân mắc bệnh trước đây. Những số liệu này có thể gây nhầm lẫn bởi nó không thể được dùng để dự đoán cho một ca bệnh cụ thể nào. Tốt nhất, bạn nên trao đổi với bác sĩ của mình vì chính bác sĩ mới là người nắm được cụ thể tình trạng căn bệnh của bạn cũng như các yếu tố để tiên lượng về khả năng thành công của các biện pháp điều trị.
Tỷ lệ sống sót tương đối sau 5 năm là gì?
Một tỉ lệ sống sót tương đối so sánh các phụ nữ có cùng thể và cùng giai đoạn ung thư vú với phụ nữ trong quần thể dân cư. Ví dụ, nếu tỉ lệ sống sót tương đối sau 5 năm ở một giai đoạn nào đó là 90% thì có nghĩa là những phụ nữ mắc ung thư có khả năng sống sau 5 năm kể từ khi được chẩn đoán là khoảng 90% so với những phụ nữ không mắc bệnh ung thư.
Những con số này đến từ đâu?
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ dựa trên cơ sở dữ liệu được cung cấp bởi Viện Ung thư Quốc gia (NCI) đã tính toán ra tỷ lệ khả năng sống sót của các thể ung thư vú ở những giai đoạn khác nhau.
Cơ sở dữ liệu của Mỹ có một điểm đặc biệt là nó không phân nhóm bệnh nhân ung thư theo phân loại quốc tế TNM (bao gồm 4 giai đoạn), thay vào đó, nó phân chia ung thư thành 3 nhóm giai đoạn:
- Giai đoạn khu trú: là khi không có dấu hiệu cho thấy ung thư đã lan rộng ra bên ngoài vú.
- Giai đoạn khu vực: ung thư đã lan rộng ra ngoài vú tới các cấu trúc lân cận hoặc tới các hạch lympho.
- Giai đoạn di căn xa: ung thư đã lan tới những vùng xa của cơ thể như phổi, gan, xương …
Tỷ lệ sống sót tương đối của ung thư vú bộ ba âm tính
Giai đoạn ung thư | Tỉ lệ sống sau 5 năm |
Khu trú | 91% |
Khu vực | 65% |
Di căn xa | 12% |
Chung cho tất cả giai đoạn | 77% |
Số liệu nêu trên được nghiên cứu từ các bệnh nhân ung thư vú phát hiện trong khoảng thời gian từ 2010 đến 2016. Hiện nay, với sự tiến bộ của các biện pháp điều trị, tỷ lệ này có thể đã được cải thiện. Mặt khác, còn rất nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến tiên lượng sống của người bệnh ung thư, như tuôi, thể trạng chung, mức độ đáp ứng với điều trị … Do đó, người bệnh không nên lấy các chỉ số này để hiểu cho tình trạng của bản thân mình.
Điều trị ung thư vú bộ ba âm tính
Ung thư vú ở thể bộ ba âm tính có ít lựa chọn điều trị hơn so với các thể ung thư vú xâm lấn khác. Lý do bởi tế bào ung thư vú thể này không có các thụ thể mà những liệu pháp điều trị hormon và liệu pháp thuốc đích nhắm tới.
Nếu ung thư chưa lan tới các vùng xa trên cơ thể, phẫu thuật là một lựa chọn tốt. Nếu khối u có kích thước lớn, hóa chất có thể được chỉ định trước để thu nhỏ kích thước khối u, sau đó mới tiến hành phẫu thuật. Hóa chất cũng thường được dùng sau khi phẫu thuật để tiêu diệt các tế bào ung thư còn sót lại, giảm thiểu nguy cơ tái phát. Xạ trị cũng là một lựa chọn được tính đến, tùy thuộc vào đặc điểm của khối u.
Bởi vì liệu pháp hormon và các thuốc đích nhắm vào protein HER2 không thể được dùng cho bệnh nhân ung thư vú bộ ba âm tính, hóa chất sẽ thường được lựa chọn. Trong những trường hợp ung thư đã di căn xa (giai đoạn 4), hóa chất và các phương pháp điều trị khác như thuốc ức chế PARP (olaparib, talazoparib) hoặc liệu pháp miễn dịch có thể được tính tới.
Các trường hợp ung thư bộ ba âm tính mà tế bào ung thư có sự hiện diện của protein PD-L1, biện pháp điều trị đầu tiên có thể là liệu pháp miễn dịch kết hợp cùng hóa chất. Cứ mỗi 5 bệnh nhân ung thư bộ ba âm tính thì lại có 1 người dương tính với PD-L1 protein.
Nếu ung thư vú bộ ba âm tính tái phát sau khi điều trị, và không thể phẫu thuật để loại bỏ, thì hóa trị và liệu pháp miễn dịch là biện pháp cuối cùng để điều trị.
♥ Đọc thêm: Hóa chất điều trị ung thư, những điều cần biết
Bất kể là ung thư đang ở giai đoạn nào, việc tham gia vào một thử nghiệm lâm sàng về các biện pháp điều trị mọi cho ung thư vú bộ ba âm tính là một lựa chọn tốt cho bệnh nhân, bởi khi tham gia những nghiên cứu này, người bệnh có thể tiếp cận với các loại thuốc tốt, không có sẵn như các thuốc điều trị tiêu chuẩn khác.
Tài liệu tham khảo