Sốt là hiện tượng ai cũng sẽ gặp trong đời. Đối với những người có con nhỏ, sốt luôn gây ra lo lắng bởi nó thường là khởi đầu cho một quá trình bệnh lý nào đó, mà số lượng các nguyên nhân gây sốt lại quá nhiều. Hãy cùng tìm hiểu về bản chất của thân nhiệt và sốt để có cái nhìn toàn diện hơn về một trong những triệu chứng bệnh phổ biến nhất trong cuộc sống hàng ngày.
Mục lục
Thân nhiệt là gì?
Thân nhiệt là nhiệt độ của cơ thể, sinh ra do quá trình oxy hoá vật chất trong cơ thể. Thân nhiệt được chia thành 2 loại : nhiệt độ trung tâm và nhiệt độ ngoại vi.
Nhiệt độ trung tâm là nhiệt độ của các cơ quan nội tạng nằm sâu bên trong cơ thể. Các cơ quan này sinh nhiệt mạnh và ít bị ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài, do đó luôn cao hơn so với nhiệt độ ngoại vi. Nhiệt độ trung tâm ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ chuyển hoá của tế bào, cơ quan trong cơ thể.
Nhiệt độ ngoại vi là nhiệt độ của da và tổ chức mỡ dưới da bao bọc phía ngoài cơ thể. Nhiệt độ ngoại vi dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường ngoài và thay đổi tuỳ vào vị trí trên cơ thể. Ví dụ nhiệt độ da ở đầu, ngực, bụng thì cao, nhiệt độ da ở chân tay thì thấp hơn và giảm dần từ “phần gốc” (nách, bẹn) cho đến “phần ngọn” (bàn tay, bàn chân).
Vị trí tiêu chuẩn chúng ta thường dùng để đo nhiệt độ là ở nách, và đó là nơi phản ánh nhiệt độ trung tâm chứ không phải nhiệt độ ngoại vi như nhiều người lầm tưởng.
Thân nhiệt của người giao động trong khoảng 36,5 – 37,5°C. Thường lấy giá trị trung bình là 37°C làm tiêu chuẩn đánh giá trong thực tế. Tuy nhiên, do sự biến động nhỏ của thân nhiệt, cũng như sai số của các dụng cụ đo, giá trị này có thể lệch lên hoặc xuống một chút. Ở Việt Nam, theo quy định của Bộ Y tế, giá trị nhiệt độ để khẳng định có sốt là từ 37,5°C trở lên.
Thân nhiệt bị ảnh hưởng bởi những yếu tố nào?
Con người là một động vật hằng nhiệt, nghĩa là ở tình trạng bình thường, thân nhiệt luôn duy trì ổn định mà không phụ thuộc vào môi trường bên ngoài. Điều này có được là do hai cơ chế sinh nhiệt và thải nhiệt song song diễn ra trong cơ thể và luôn cân bằng với nhau.
Quá trình sinh nhiệt
Sự oxy hóa vật chất trong cơ thể là nguồn sinh nhiệt chủ yếu. Đây là quá trình tế bào “đốt cháy” các dưỡng chất tạo ra năng lượng để hoạt động, đồng thời thải ra nhiệt. Một số hormon trong cơ thể gây tăng chuyển hóa và do đó làm tăng sinh nhiệt. Bạn đã bao giờ gặp một người mắc Basedow? Trong bệnh lý này, tuyến giáp tăng cường tiết các hormon gây tăng chuyển hóa và khiến người bệnh luôn có cảm giác nóng bức.
Ngoài ra, vận động của hệ thống cơ bắp cũng thải ra rất nhiều nhiệt. Bạn có biết tại sao khi lạnh chúng ta lại run không? Đó là phản xạ của cơ thể khiến cơ bắp co rút với mức độ ít, làm cho phần lớn năng lượng được giải phóng không để thực hiện công cơ học mà chuyển thành nhiệt lượng.

Quá trình thải nhiệt
Khi nhiệt lượng sinh ra dư thừa, cơ thể sẽ phải thải nó ra môi trường bên ngoài. Có hai hình thức thải nhiệt chính:
Thải nhiệt bằng truyền nhiệt: là cách thải nhiệt trực tiếp, trong đó nhiệt độ “tự bức xạ” thoát ra khỏi cơ thể, hoặc truyền qua môi trường tiếp xúc với cơ thể (không khí, nước, quần áo). Nhược điểm của cách thải nhiệt này là chỉ hiệu quả khi nhiệt của môi trường bên ngoài thấp hơn nhiệt độ cơ thể.
Thải nhiệt bằng bốc hơi nước: nhiệt độ được thải qua sự bay hơi mồ hôi hoặc hơi nước khí thở. Khi chuyển từ dạng lỏng sang dạng hơi, nước hấp thu nhiệt lượng của cơ thể và kéo thân nhiệt giảm xuống. Cách này hiệu quả ngay cả khi nhiệt độ môi trường cao hơn nhiệt độ cơ thể. Tuy nhiên, nếu độ ẩm không khí quá cao thì sự bay hơi sẽ bị cản trở. Đó là lí do tại sao trong những ngày nồm ẩm chúng ta có cảm giác nóng bức, khó chịu.

Thứ gì điều hóa quá trình sinh nhiệt và thải nhiệt?
Đề hai quá trình sinh nhiệt và thải nhiệt diễn ra hài hòa khiến nhiệt độ cơ thể được hằng định, hệ thần kinh giữ vai trò “chủ sự”.
Trên bề mặt da của chúng ta có những cảm biến siêu nhỏ được gọi là những thụ thể nhiệt. Chúng nhạy cảm với sự thay đổi nhiệt độ và sẽ “đánh tín hiệu” báo về não bộ qua những sợi thần kinh chạy khắp cơ thể.
“Tổng hành dinh” điều hòa nhiệt độ cơ thể được gọi là Trung khu điều nhiệt, nằm ở giữa não bộ trong một cấu trúc tên là Vùng dưới đồi thị (Hypothalamus). Đa số độc tố của các vi khuẩn, virus đều tác động vào Trung khu điều nhiệt mà gây sốt. Các thuốc hạ sốt cũng tác động vào trung khu này mà gây tác dụng.
Từ trung khu điều nhiệt, não gửi tín hiệu đáp ứng đến các cơ quan trong cơ thể để kích hoạt cơ chế chống lạnh hoặc chống nóng.
Các cơ chế chống nóng chủ yếu bao gồm
- Giãn mạch dưới da
- Tăng tiết mồ hôi
- Tăng thông khí (thở nhanh hơn)
Các cơ chế chống lạnh bao gồm
- Tăng cường chuyển hóa (trời lạnh chúng ta nhanh đói hơn!)
- Run cơ
- Co mạch dưới da
- Phản xạ dựng chân lông (“nổi gai ốc”)
Khái niệm về Mức chuẩn nhiệt
Ở người bình thường, nhiệt độ tại vùng dưới đồi hằng định ở mức 37,1°C. Khi nhiệt độ vượt ngưỡng này, não bộ chỉ huy các cơ chế thải nhiệt tăng cường hoạt động, trong khi các cơ chế sinh nhiệt giảm xuống mức thấp nhất, giúp cho nhiệt độ trung tâm được đưa về mức 37,1°C. Ngược lại, khi nhiệt độ hạ xuống dưới 37,1°C, sinh nhiệt vượt trội thải nhiệt, nâng nhiệt độ cơ thể trở về mức bình thường.
Nhiệt độ 37,1°C này được gọi là “mức chuẩn” của cơ chế điều nhiệt. Mức chuẩn nhiệt này không cố định mà phụ thuộc vào nhiệt độ da và một số cơ quan trong cơ thể.
Về cơ bản, khi sốt diễn ra, trung khu điều nhiệt hình thành nên một mức chuẩn nhiệt mới cao hơn bình thường, và các cơ chế thải nhiệt, tăng nhiệt vẫn hoạt động nhịp nhàng xung quanh mức chuẩn nhiệt mới này. Điều này khác với hiện tượng cũng gây tăng thân nhiệt là say nắng, say nóng. Trong hiện tượng này, Trung khu điều nhiệt bị ức chế mạnh làm cho các cơ chế điều nhiệt bị rối loạn, cơ thể không thể thải được nhiệt lượng thừa khiến thân nhiệt tăng cao.
Các chất gây sốt (pyrogens)
Chất gây sốt là những chất có khả năng làm thay đổi Mức chuẩn nhiệt của trung khu điều nhiệt. Người ta phân ra 2 nhóm : các chất gây sốt ngọai sinh (có nguồn gốc từ bên ngoài cơ thể) và các chất gây sốt nội sinh (sinh ra bên trong cơ thể).
Một số chất gây sốt ngoại sinh thường gặp như:
- Vi khuẩn và độc tố vi khuẩn
- Virus
- Các loại protein có thể kích thích sinh miễn dịch, như một số loại vaccin chẳng hạn
- Một số loại thuốc
- Một số loại hormon
Các chất gây sốt nội sinh được tế bào bạch cầu sản xuất ra khi có những nhân tố gây bệnh xuất hiện trong cơ thể (virus, vi khuẩn, khối u …)
Mối quan hệ giữa chất gây sốt nội sinh, ngoại sinh và Trung khu điều nhiệt được thể hiện trong sơ đồ dưới đây.
3 giai đoạn của sốt
Các chất gây sốt tác động đến trung khu điều nhiệt ở vùng dưới đồi dẫn tới hình thành một “mức chuẩn nhiệt” mới cao hơn bình thường. Kết quả là cơ thể “cảm thấy lạnh” và đáp ứng bằng cách tăng sinh nhiệt, giảm thải nhiệt để nâng thân nhiệt lên tới mức chuẩn mới. Bệnh nhân lúc này thấy lạnh, sởn gai ốc, co mạch dưới da, da nhợt, giảm tiết mồ hôi, run cơ. Giai đoạn này gọi là giai đoạn sốt tăng, nó có thể bắt đầu đột ngột, sốt cao sau vài giờ (như trong bệnh cúm, viêm phổi), hoặc từ từ, tăng dần sau vài ngày (thương hàn, sởi).
Khi thân nhiệt đã đạt “mức chuẩn” mới, bệnh nhân không còn cảm thấy lạnh nữa. Thải nhiệt đạt mức cân bằng với sinh nhiệt (giai đoạn sốt đứng).
Đến khi tác nhân gây sốt không còn, “mức chuẩn” của vùng dưới đồi lại tụt xuống về mức bình thường, cơ thể ở trong trạng thái thừa nhiệt, làm xuất hiện các phản xạ chống nóng (tăng thải nhiệt, giảm sinh nhiệt), biểu hiện là sự tăng tiết mồ hôi, giãn mạch, da đỏ lừ, đi tiểu nhiều… Đây là giai đoạn sốt lui. Sự hạ nhiệt có thể diễn biến từ từ hoặc đột ngột. Hạ thân nhiệt quá nhanh có thể nguy hiểm vì gây truỵ mạch.
Vai trò của sốt đối với cơ thể
Sốt thường gây ra tình trạng mệt mỏi, khó chịu và có thể có nhiều biến chứng. Vậy sốt có hại phải không ? Không phải. Sốt về cơ bản là một phản ứng thích ứng để bảo vệ cơ thể. Mechnikov, nhà vi sinh vật học vĩ đại người Nga đã từng nói:
Viêm, tăng bạch cầu và sốt hình thành một thế chân kiềng có tác dụng ngăn chặn các nguyên nhân bệnh lý khi chúng xâm nhập cơ thể
Thực vậy, sốt sẽ kích hoạt hàng loạt phản ứng của cơ thể để sẵn sàng đương đầu với mầm bệnh, ví dụ như:
- Sốt làm tăng cường dự trữ năng lượng, tăng hoạt tính của các tế bào, cơ quan trong cơ thể (tăng khả năng thải độc của gan, khả năng lọc của thận, khả năng bơm máu của tim …)
- Tạo điều kiện phục hồi các tế bào và mô bị tổn thương nhờ tăng cường chuyển hoá.
- Nhiệt độ cao cũng ức chế sự phát triển của một số loại vi khuẩn, virus.
- Sốt kích thích sinh kháng thể, bạch cầu và nhiều yếu tố khác của hệ miễn dịch.

Trong y học, bác sĩ có thể gây sốt “nhân tạo” để điều trị một số bệnh lý như giang mai, viêm đa khớp dạng thấp, tăng huyết áp ác tính …
Tuy nhiên, nếu sốt quá cao và kéo dài thì ý nghĩa thích ứng bảo vệ cơ thể của nó sẽ không còn, ngược lại dẫn tới những rối loạn chuyển hoá và rối loạn chức phận nghiêm trọng, gây tổn thương nhiều hệ cơ quan trong cơ thể, thậm chí đe doạ tử vong.
Chuyển hoá nước – điện giải thường bị ảnh hưởng đầu tiên. Rối loạn chủ yếu trong giai đoạn sốt đứng. Mất nước trong các tế bào và mất nước qua hô hấp, mồ hôi, nước tiểu khiến bênh nhân khát. Mặt khác, nước bị giữ trong cơ quan, tổ chức gây ứ đọng các sản phẩm chuyển hoá dư thừa, khiến chúng ta có cảm giác đau mỏi, mệt, buồn ngủ và kém tập trung.
Ở trẻ nhỏ, do trung tâm điều nhiệt và võ não chưa hoàn thiện, dễ phát sinh co giật khi sốt cao. Hơn nữa, trẻ có thể sốt cao ngay cả khi nhiễm khuẩn chỉ ở mức độ nhẹ.
Sốt còn làm chúng ta chán ăn, ăn mất ngon. Cơ chế của hiện tượng này trong sốt do nhiễm khuẩn là do trung tâm ăn bị ức chế và giảm bài tiết dịch tiêu hoá do nhiễm độc. Khả năng co bóp của đường ruột cũng giảm sút. Chán ăn và rối loạn tiêu hóa khiến cơ thể trở nên suy nhược, gầy sút.
Một số tính chất của sốt bạn nên biết
Mức độ sốt
Sốt được phân thành các mức độ:
- Sốt nhẹ : thân nhiệt từ 37,5°C đến dưới 38,5°C. Ở mức này, thường không cần phải dùng thuốc hạ sốt.
- Sốt vừa : thân nhiệt từ 38,5°C đến dưới 39°C
- Sốt cao : thân nhiệt trên 39°C
- Sốt rất cao: thân nhiệt trên 40°C. Đây là mức rất nguy hiểm, đòi hỏi phải can thiệp nhanh chóng nếu không muốn có các biến chứng xảy ra.
Thời gian sốt
Sốt cấp tính : là sốt dưới 7 ngày, gặp trong các bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm virus tự giới hạn như cúm, viêm đường hô hấp cấp tính, sốt xuất huyết (Sốt Dengue) …
♥ Đọc thêm: Infographic đầy đủ nhất về sốt xuất huyết Dengue
Sốt kéo dài : khi thời gian sốt trên 7 ngày, có khi kéo dài hàng tuần, hàng tháng. Nguyên nhân của loại sốt này rất nhiều và phức tạp, cần phải nhập viện để được thăm khám tổng thể.
Tính chất sốt
Sốt cao liên tục : nhiệt độ thường xuyên ở trên 39°C, dao động sáng chiều không quá 1°C, gặp trong nhiễm virus như sốt xuất huyết (thường dưới 7 ngày), hoặc thương hàn (trên 7 ngày).
Sốt cao dao động : thân nhiệt lúc nào cũng cao, dao động mạnh, sáng chiều chênh lệch từ 1,5°C trở lên, gặp trong các ổ apxe ở sâu (apxe gan, apxe phổi…), nhiễm khuẩn huyết và các nhiễm khuẩn nặng khác.
Sốt từng cơn : thân nhiệt lúc bình thường, lúc tăng cao, điển hình trong bệnh sốt rét.
Sốt hồi quy : cứ sau mỗi đợt sốt 3 – 7 ngày lại có một đợt không sốt, tiếp theo là một đợt sốt trở lại, điển hình là bệnh sốt hồi quy do xoắn khuẩn Borrrelia recurrentis gây ra, với trung gian truyền bệnh là chấy rận hoặc bọ chét.
Sốt làn sóng : thân nhiệt từ từ lên cao, sau đó ít lâu lại từ từ giảm xuống đến mức bình thường, sau một thời gian dài ngắn tuỳ từng trường hợp, sốt lại tái phát, ví dụ trong bệnh do xoắn khuẩn vàng da Leptospira gây ra.
Sốt dạng cao nguyên : sốt từ từ lên cao, sau đó duy trì sốt cao liên tục trong 7 – 10 ngày hoặc dài hơn, rồi sốt từ từ giảm xuống, ví dụ trong bệnh thương hàn.
Sốt cách nhật : ngày sốt môt cơn, hôm sau nghỉ sốt, hôm sau lại sốt cơn khác. Ví dụ trong bệnh sốt rét do Plasmodium vivax.
Sốt về chiều : thường sốt không cao, sốt về chiều và đêm. Gặp trong lao sơ nhiễm.
Sốt kéo dài không theo quy luật nào : gặp trong các khối u ác tính.
Những cách đo thân nhiệt
Đo ở nách: Đây là cách đo tiêu chuẩn, thường được áp dụng nhất. Đặt đầu dò của nhiệt kế vào chỗ sâu nhất của hõm nách rồi khép cánh tay sát thân mình. Với nhiệt kế thuỷ ngân, chờ từ 3 – 5 phút rồi đọc kết quả. Với nhiệt kế điện tử, máy tự hiển thị nhiệt độ khi có kết quả.
Đo ở miệng: Người bệnh ngậm đầu dò vào miệng, chờ 3 – 5 phút. Tuy nhiên không áp dụng với trẻ quá nhỏ vì trẻ không hợp tác được, mặt khác trẻ có thể nuốt nhiệt kế vào hoặc cắn vỡ bầu thủy ngân gây nguy hiểm. Đánh giá nhiệt độ bằng kĩ thuật đo ở miệng tương tự đo ở nách.
Đo ở hậu môn: thường áp dụng đối với trẻ nhỏ. Cần dùng những nhiệt kế có đầu tù, tròn. Trước khi dùng cần lau rửa sạch sẽ nhiệt kế, bôi một ít Vaseline vào đầu dò. Với trẻ sơ sinh, đặt bé nằm ngửa, một tay nhấc hai chân trẻ giơ lên, một tay đút từ từ phần đầu dò vào hậu môn tới gần hết phần này, sau đó tiếp tục giữ phần còn lại của nhiệt kế trong tay. Với trẻ lớn hơn có thể cho trẻ nằm sấp rồi đút đầu dò vào. Cần giữ nhiệt kế trong ít nhất 2 phút.
Đo ở tai: nghiêng đầu bệnh nhân đối diện với mặt người đo, có thể kéo nhẹ vành tai để thấy rõ ống tai, đưa đầu dò của nhiệt kế hồng ngoại vào đúng ống tai, ấn nút khởi động, sau vài giây máy sẽ hiện kết quả.
Đo ở trán : hiện có loại nhiệt kế hồng ngoại để đo nhiệt độ ở trán mà không cần chạm vào da. Đưa nhiệt kế đến giữa trán, chậm rãi di chuyển đèn hồng ngoại ngang qua trán về phía thái dương để máy dò nhiệt độ đỉnh. Kết quả sẽ báo ngay sau vài giây.
Với kiểu đo ở hậu môn, ống tai, nhiệt độ 38°C trở lên mới được coi là sốt. Bảng dưới đây cho biết kĩ thuật đo phù hợp có thể áp dụng cho từng lứa tuổi:
Lứa tuổi | Kĩ thuật đo |
0 – 3 tháng | Hậu môn |
3 tháng – 3 tuổi | Hậu môn, tai, nách |
4 – 5 tuổi | Hậu môn, tai, miệng, nách |
5 tuổi trở lên và người trưởng thành | Nách, miệng, tai |
Các biện pháp hạ sốt
Có hai nhóm biện pháp hạ sốt chính là các biện pháp vật lý và dùng thuốc.
Hạ sốt vật lý
Các biện pháp này tận dụng cơ chế thải nhiệt vật lý để làm hạ nhiệt độ cơ thể. Chúng có thể được dùng trong trường hợp sốt nhẹ và vừa, hoặc kết hợp với dùng thuốc để giúp giảm sốt nhanh hơn.
Trước tiên, cần nới lỏng quần áo, hoặc cho người bệnh mặc quần áo thông thoáng; đối với trẻ em, không ủ ấm, không quấn chăn, tã cho trẻ, nhằm tạo điều kiện để thoát nhiệt cơ thể.
Nếu đang ở trong môi trường nóng bức, độ ẩm cao, hãy di chuyển người bị sốt sang nơi có không khí thoáng đãng, mát mẻ hơn. Có thể dùng điều hòa nhiệt độ và quạt để làm mát, nhưng lưu ý tránh để luồng gió thốc thẳng vào người bệnh, khiến nhiệt độ ngoại vi giảm nhanh, sẽ gây phản xạ co mạch hạn chế thoát nhiệt.
Chườm ấm là một biện pháp tốt để hạ thân nhiệt tức thời và an toàn. Hãy chuẩn bị một chậu nước ấm và vài chiếc khăn thấm nước. Nhúng khăn vào nước ấm rồi lau khắp cơ thể người bị sốt, lau nhiều ở những vùng nhiệt độ cao như đầu, cổ, nách, bẹn. Khi khăn nguội đi thì lại nhúng vào nước ấm và tiếp tục lau. Làm vậy liên tục khoảng 15-30 phút hoặc khi thân nhiệt đã hạ. Cơ chế của biện pháp vật lý này là nước ấm làm giãn mạch máu ngoại vi, giãn nở lỗ chân lông, tạo điều kiện thuận lợi để thoát nhiệt. Mặt khác nước ấm khi bay hơi sẽ đem theo nhiệt lượng của cơ thể.

Vậy có nên chườm lạnh không? Tuyệt đối không! Nước lạnh sẽ làm co mạch và se khít lỗ chân lông, cản trở quá trình thoát nhiệt. Một số người thậm chí lấy nước đá để chườm, có thể dẫn đến nguy cơ bỏng lạnh cho người bệnh.
Các loại thuốc hạ sốt phổ biến
Thuốc hạ sốt – giảm đau – chống viêm không phải Steriod (NSAIDs) là nhóm thuốc được dùng để hạ sốt phổ biến nhất trên lâm sàng, trong đó 2 chế phẩm thường dùng là Paracetamol và Ibuprofen.
Cơ chế tác dụng hạ sốt của NSAIDs là ức chế enzym tổng hợp prostaglandin, qua đó ngăn cản hình thành prostaglandin, ngăn cản các cơ chế sinh nhiệt, lập lại cân bằng nhiệt cho trung khu điều nhiệt.
Do tác động vào “khâu cuối” của chuỗi phản ứng gây sốt nên NSAIDs có tác dụng hạ sốt đối với mọi nguyên nhân gây sốt, mặt khác nó không gây hạ thân nhiệt trên người bình thường.
Vì không tác động đến nguyên nhân gây sốt nên NSAIDs chỉ là thuốc điều trị triệu chứng, sau khi thuốc bị thải trừ ra khỏi cơ thể, sốt sẽ quay trở lại.
Paracetamol – thuốc hạ sốt đầu tay
Paracetamol (hay Acetaminophen) là một thuốc giảm đau chống viêm cùng nhóm với Aspirin, nhưng tác dụng chống viêm rất yếu mà chủ yếu là tác dụng hạ sốt, giảm đau. Paracetamol hấp thu nhanh qua đường tiêu hóa, có rất ít tác dụng phụ lên các hệ cơ quan và được coi là thuốc hạ sốt an toàn hàng đầu.
Tuy nhiên cũng có trường hợp nguy hiểm khi dùng Paracetamol, đó là phản ứng dị ứng và hoại tử tế bào gan khi dùng quá liều. Do đó, luôn phải tính toán liều paracetamol trước khi sử dụng, đặc biệt là đối với trẻ em.
Liều Paracetamol hạ sốt cho người lớn:
– Từ 325-650 mg mỗi lẫn cách nhau 4-6 tiếng
– Hoặc 1000 mg mỗi lần cách nhau 6-8 tiếng
– Liều tối đa cho phép là 1000 mg mỗi lần và 4000 mg mỗi ngày
Liều Paracetamol hạ sốt cho trẻ em: cần tính theo trọng lượng cơ thể
– Với trẻ dưới 1 tháng tuổi: từ 10-15mg/kg/lần cách nhau 6-8 tiếng
– Với trẻ dưới 12 tuổi: từ 10-15mg/kg/lần cách nhau 4-6 tiếng (tối đa 5 lần trong một ngày)
– Với trẻ trên 12 tuổi: Từ 325-650 mg mỗi lẫn cách nhau 4-6 tiếng
– Liều tối đa với trẻ em nói chung là 80mg/kg/ngày
Do Paracetamol chuyển hóa phần lớn ở gan, nên nếu người bị sốt có bệnh lý gan (viêm gan, xơ gan…) hay tiền sử uống rượu, cần phải tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng thuốc.
Ibuprofen
Ibuprofen cũng là thuốc hạ sốt – giảm đau- chống viêm tương tự Aspirin, nhưng ít có tác dụng phụ trên đường tiêu hóa hơn. Ibuprofen được dùng khá phổ biến ở các nước Âu Mỹ. So với Paracetamol, Ibuprofen có nhiều tác dụng không mong muốn hơn như:
- Làm tăng nguy cơ đau tim hoặc đột quỵ, đặc biệt với những người có sẵn bệnh lý tim mạch mà dùng thuốc với liều cao, kéo dài.
- Gây chướng bụng, buồn nôn, thậm chí chảy máu tiêu hóa
Nhìn mờ, giảm thị lực, thay đổi nhạy cảm màu sắc
- Gây giữ nước trong cơ thể do làm giảm dòng máu đến thận
- Nếu bạn dị ứng với Paracetamol hoặc Aspirin, bạn cũng dễ có khả năng dị ứng với Ibuprofen.
- Dùng Ibuprofen trong 3 tháng cuối của thai kì có thể gây hại cho thai.
Nếu bạn bị sốt xuất huyết, hoặc trong thời gian dịch sốt xuất huyết đang lưu hành, tuyệt đối không dùng Ibuprofen vì thuốc có thể làm nặng thêm tình trạng xuất huyết.
Liều Ibuprofen hạ sốt cho người lớn:
– Từ 200-400 mg mỗi lẫn cách nhau 4-6 tiếng.
Liều Ibuprofen hạ sốt cho trẻ em: cần tính theo trọng lượng cơ thể
– Với trẻ 6 tháng đến 12 tuổi: 5mg/kg/lần cách nhau 6-8 tiếng nếu sốt dưới 39°C. Nâng lên 10mg/kg/lần nếu sốt trên 39°C.
– Liều tối đa là 40mg/kg cân nặng.
– Không dùng Ibuprofen cho trẻ dưới 6 tháng tuổi.
Những lưu ý khi xử trí sốt tại nhà bằng thuốc
Nhiệt kế là thứ luôn phải có trong tủ thuốc gia đình. Bạn không thể sờ trán để ước đoán mức độ sốt đâu !
Đối với sốt mức độ nhẹ, không vội vã lạm dụng thuốc hạ sốt vì có thể thay đổi diễn biến của bệnh, gây khó khăn cho chẩn đoán và điều trị sau này của bác sĩ.
Nếu sốt vừa hoặc cao, hoặc sốt kéo dài, lúc này cần thiết phải dùng thuốc hạ sốt để ngăn ngừa những biến chứng có hại của tăng thân nhiệt. Đồng thời chủ động tìm kiếm nguyên nhân sốt. Nếu không thể nhận định được nguyên nhân hoặc không chắc chắn, hãy tới cơ sở y tế.
Không được sử dụng xen kẽ nhiều loại thuốc hạ sốt khác nhau. Trong 2 loại thuốc hạ sốt phổ biến thì Paracetamol nên được ưu tiên sử dụng. Đối với trẻ em, không lạm dụng thuốc động kinh để phòng chống co giật cho bé.
Luôn đảm bảo dinh dưỡng tốt để cơ thể có đủ năng lượng hoạt động và chống lại bệnh tật. Bù nước cho người bị sốt phải lưu ý bù kèm cả điện giải. Tốt nhất, hãy dùng dung dịch oresol. Các loại nước hoa quả giàu vitamin cũng là một lựa chọn tốt nhằm tăng cường sức đề kháng.
Hãy dừng uống thuốc và đến ngay cơ sở y tế nếu:
- Bạn vẫn còn sốt sau 3 ngày uống thuốc
- Sốt tiếp tục tăng lên mặc dù đã uống thuốc đúng liều
- Phát ban trên da, ngứa, sưng nề nhiều vị trí trên cơ thể, đau đầu liên tục
Tài liệu tham khảo:
- Sách Sinh lý bệnh học, Học viện Quân Y
- Website Bộ Y tế Việt Nam
- Website Bệnh viện Bạch Mai
- https://www.drugs.com/
- Wikipedia
- Medical News Today